TIN MỪNG: Ga 20:19-31
Suy niệm:
1. Tâm trạng của các tông đồ sau khi Đức Giêsu chết
Sau khi Đức Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thập giá, tinh thần của các tông đồ bị dao động mãnh liệt, niềm tin và lòng can đảm của các ông như bị mất hẳn. Từ lúc khởi sự theo Ngài tới bữa Tiệc Ly, suốt ba năm ấy, các ông đã nhìn thấy những dấu chứng rất chắc chắn chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia mà dân Do Thái hằng trông đợi từ mấy trăm năm nay, các ông vẫn luôn luôn tin tưởng rằng sẽ tới lúc Ngài xuất đầu lộ diện thành một vị tướng tài ba với binh hùng tướng mạnh để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của Rô-ma. Và các ông cũng nuôi hy vọng rằng sau khi Ngài lên ngôi vua, các ông sẽ trở thành những vị quan lớn trong triều đình của Ngài. Được làm quan cai trị 12 chi tộc Israel - là một mơ ước không tưởng nhưng luôn nằm sẵn trong vô thức của những người dân thấp cổ bé miệng như các ông - nay nhờ theo Đức Kitô đã trở thành một hy vọng dường như nằm trong tầm tay. Thật vậy, ngay trong bữa tiệc ly, các ông vẫn còn tranh luận xem ai là người cao trọng hơn (x. Lc 22:24).
Vì thế, khi Đức Giêsu bị bắt, các ông bắt đầu hơi nản chí, nhưng vẫn còn hy vọng rằng Ngài chỉ giả bị bắt, và với quyền phép của Ngài, Ngài sẽ thoát khỏi cái chết dễ dàng và sẽ phục hưng lại. Nhưng khi thấy Ngài thật sự bị chết một cách quá nhục nhã trên thập giá, và đã bị chôn trong mồ - rõ ràng Ngài đã chết - thì giấc mơ làm quan kia hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là nỗi sợ hãi bị người Do Thái ruồng bắt. Từ trưa thứ sáu Đức Giêsu chịu nạn đến sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ kế tiếp, các ông sống trong hoang mang, sợ hãi và thất vọng.
Sáng ngày thứ nhất, các ông nghe phong thanh rằng Đức Giêsu đã sống lại, nguồn tin đến từ mấy phụ nữ khó mà tin chắc chắn được. Giữa các ông cũng có những chứng từ nhưng không đủ tin: Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống, còn hai môn đệ từ Emmau về nói rằng họ vừa nhận ra Ngài thì Ngài biến mất. Chiều hôm đó, khi màn đêm bắt đầu buông xuống, các ông tụ họp lại để hỏi thăm nhau, bàn tán về những biến cố xảy ra trong ngày, và cũng để nương nhau cho đỡ sợ. Lúc đó cửa đóng kín vì các ông sợ người Do Thái. Các ông đang bàn luận thì Đức Giêsu hiện ra.
Mặc dù nghe phong thanh rằng Ngài đã sống lại, nhưng khi Ngài hiện ra, các ông không khỏi kinh ngạc, vì đây vốn là một chuyện không thể tin được. Theo Tin Mừng Luca (24:36-43) thì khi Ngài hiện ra, «các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma», và cho dù «Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem… các ông vẫn chưa tin», đến nỗi Ngài phải ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông để các ông tin. Chúng ta cần phải thông cảm với các ông, nhất là ông Tôma, vì đối với bất kỳ ai, sống lại từ cõi chết là điều quá sức lạ lùng, cần phải đích thân sờ mó vào những dấu đinh, vào cạnh sườn thì mới có thể tin được. Vả lại, có thật sự chứng nghiệm Ngài sống lại bằng sự sờ mó cụ thể như thế, các ông mới dám mạnh dạn làm chứng - bằng chính mạng sống mình - rằng Ngài đã thật sự sống lại.
2. Những bài học
Từ bài Tin Mừng trên, chúng ta chúng ta rút ra những bài học sau đây:
a) Trong cuộc đời, niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu nhiều khi cũng bị thử thách một cách nặng nề như các tông đồ xưa. Chúng ta cũng bị nao núng tinh thần, bị chán nản thất vọng, thấy niềm tin của mình tưởng rằng vững chắc bỗng hóa thành như chuyện không tưởng. Nhưng quả thật đối với Thiên Chúa, có nhiều chuyện không thể tin được mà lại xẩy ra. Điều quan trọng là trong khi bị thử thách, chúng ta cứ kiên tâm chờ đợi, đừng vội làm điều gì ngược với lương tâm, với ý Chúa. Tất cả các vị thánh đều phải trải qua những «đêm tối của đức tin». Chúa muốn như vậy, đức tin có bị thử thách thì mới trưởng thành và trở nên vững chắc được. Sau cơn thử thách ấy, đức tin hoặc sẽ bị mất đi, hoặc sẽ được trui luyện thành bền vững hơn. Vấn đề nằm ở sự kiên nhẫn: «Ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 24:13).
b) Thân xác của Đức Kitô sau khi sống lại là một thân xác vinh quang, khác với thân xác của Ngài trước khi chết. Thân xác vinh quang của Ngài không còn bị lệ thuộc vào những định luật vật lý thông thường: chẳng hạn cửa đóng kín mà vẫn vào được (Ga 20:19), nhưng không phải là bóng ma không có thể chất, vì Ngài vẫn có thể ăn uống như người thường (Lc 24:43), vẫn có thể rờ thấy một cách cụ thể (Ga 20:20), và nhất là thân xác đó sẽ chẳng bao giờ phải đau khổ, phải chết nữa. Đó chính là tính chất của thân xác chúng ta trong tương lai, sau khi chúng ta được sống lại từ cõi chết.
Thân xác vinh quang sau khi phục sinh là hình ảnh của những tâm hồn đã được sống lại về mặt tinh thần trong Đức Kitô. Đó là những tâm hồn đã chết cho thế gian, xác thịt, tội lỗi, và chỉ sống cho Thiên Chúa hay Đức Kitô và tha nhân, tâm hồn họ không còn bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, không còn bị điên đảo vì những biến đổi của đời thường nữa… Tuy nhiên, họ không phải là những con người siêu thế, sống ngoài vòng tục lụy, mà họ vẫn luôn luôn sống giữa thế gian, làm tất cả mọi việc mà mọi người vẫn làm. Họ vẫn phải đương đầu với tất cả mọi khó khăn mà mọi người vẫn phải đối đầu. Nhưng họ vẫn không bị những khó khăn hay nghịch cảnh vùi dập, làm họ mất bình an. Họ vẫn luôn luôn tìm được bình an và niềm vui trong mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu. Tình yêu giúp cho họ thâm nhập vào tất cả những tình huống đời sống thực tế của tha nhân để họ có thể hiểu và giúp đỡ mọi người tùy theo nhu cầu. Vững tin vào Chúa, gắn bó và luôn luôn sống với Chúa là nguồn sức mạnh và năng lực, đó là bí quyết tạo sức mạnh của họ.
c) Sinh xuống trần, sống như người trần, rao giảng cho người trần, chết và sống lại vì người trần, việc cứu chuộc nhân loại không phải đến đây là hoàn tất. Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành được phần chủ yếu, nhưng chưa hoàn tất. Sứ mạng của Ngài còn dang dở cần được các tông đồ và Giáo Hội Ngài tiếp tục. Vì thế, Ngài nói: «như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em» (Ga 20:21). Ngài không chỉ truyền cho chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng để cứu rỗi thế giới như Ngài đã làm, mà còn ban Thánh Thần và quyền bính thiêng liêng như Ngài đã từng nhận từ Chúa Cha cho những ai lãnh nhận sứ mạng của Ngài.
Ngài trao việc tiếp tục sứ mạng của Ngài cho các tông đồ, cũng chính là cho chúng ta, tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt cho những ai nhận ra hay tự ý thức về lời mời gọi của Ngài. Mọi Kitô hữu nên ý thức lại về lời mời gọi này trong cuộc sống của mình.
Nguyễn Chính Kết