Nếu sống tại Do Thái vào thời Chúa Giêsu,
ta có nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế không?
1. Hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu
Theo thông lệ đã bao đời, cứ 14 năm một lần, hoàng đế Rôma lại ra lệnh kiểm tra dân số trên toàn đế quốc để có cơ sở thu thuế và tuyển lính. Mọi người dân đều phải về nguyên quán mình để khai hộ khẩu. Vì Bêlem là nơi sinh trưởng của vua Đavít, tổ tiên Giuse, nên ông phải đưa Maria vợ mình đang mang thai từ Nadarét về đấy khai hộ khẩu. Hành trình từ Nadarét về Bêlem khoảng 80 dậm (#130 km). Vì phương tiện di chuyển quá đơn sơ, hai vợ chồng nghèo phải vất vả lắm mới tới nơi. Nơi đất lạ, vì nghèo không tìm được chỗ trọ, hai vợ chồng phải tá túc đỡ ở một chuồng súc vật ngoài đồng cỏ. Không may, Maria đã đến ngày sinh con, hai vợ chồng nghèo đành phải sinh con ngay tại nơi trọ nghèo nàn ấy.
2. Đức Giêsu chấp nhận cảnh thấp hèn ngay từ khi sinh ra đời
Không có gì nhục nhã và đau lòng cho bằng phải ra đời trong một chuồng súc vật, chẳng những thiếu đủ mọi thứ mà còn dơ bẩn, hôi hám! Thử hỏi: cả 100 triệu dân Việt, một dân tộc hiện đang bị xếp vào loại nghèo khổ nhất thế giới, đã có mấy người phải sinh ra trong cảnh tệ hại như thế? Thế mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng cao sang, cũng chính là Vua Vũ Trụ, lại phải sinh ra trong hoàn cảnh như thế! Tuy nhiên, tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, đều ứng nghiệm những gì các ngôn sứ đã loan báo mấy trăm năm trước về Đấng Cứu Thế.
Đang khi nhân loại ai cũng tìm sự giàu sang, quyền thế, địa vị, danh dự cho mình và người thân mình, thì Thiên Chúa Cha lại tìm sự nghèo khó, thấp hèn, nhục nhã cho Người Con vô cùng yêu quí của mình. Suốt đời mình, Đức Giêsu cũng hành động tương tự: đang khi nhân loại ai cũng tìm đủ cách đưa mình lên thật cao, thì Đức Giêsu lại tìm đủ cách để tự hạ mình xuống thật thấp. Chính vì con người cứ muốn tự đưa mình lên thật cao và sẵn sàng đè người khác xuống nên nhân loại mới phát sinh ra muôn vàn giống tội và phải chịu biết bao khổ ải. Vì thế, muốn cứu chuộc nhân loại, Đấng Cứu Thế phải hành động ngược lại khuynh hướng tội lỗi ấy là tự hạ mình xuống thật thấp để nâng mọi người lên. Đúng như thánh Phaolô nói: «Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có» (2Cr 8:9). Để cứu rỗi nhân loại, nếu Thiên Chúa đã phải theo đường lối ấy, thì những kẻ muốn cộng tác với Ngài trong công cuộc cứu rỗi, lẽ nào đi ngược lại đường lối ấy mà lại thành công được? Nghĩa là nếu cứ thích mình được đề cao, thích sống trên đầu trên cổ người khác, thì cứu rỗi được ai?
3. Những kẻ được loan báo về việc giáng sinh của Đức Giêsu
Có sự nghịch lý quá lớn trong việc Con Thiên Chúa vô cùng cao sang lại chấp nhận cảnh vô cùng nghèo hèn để giáng sinh hầu cứu chuộc con người. Tuy nhiên vẫn còn một nghịch lý rất lớn khác trong biến cố này. Khi Ngài sinh ra thì toàn dân Do Thái – kể cả giới lãnh đạo Do Thái giáo (các thượng tế, tư tế, kinh sư, luật sĩ…) – đang trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã từng loan báo trước đó mấy trăm năm. Mấy trăm năm toàn dân mong đợi, thế mà khi Đấng Cứu Thế đến, Thiên Chúa đã chẳng sai các thiên sứ đến báo tin cho các vị chức sắc cao cấp trong tôn giáo Do Thái cũng như nhà cầm quyền Do Thái, là những người chính thức đại diện cho tuyển dân của Ngài. Mà chỉ báo tin cho các mục đồng, đại diện cho hạng người hèn kém nhất trong tôn giáo và trong xã hội! Quả thật, dưới con mắt loài người, Thiên Chúa tỏ ra «chẳng biết điều» tí nào! Ngài chẳng biết cách xử sự theo kiểu loài người! Tại sao vậy?
Đối với Thiên Chúa, kẻ có giá trị trước mắt Ngài là những tâm hồn đơn sơ chân thành, sẵn sàng đón nhận chân lý, chứ không phải là những người có chức tước trong xã hội hay tôn giáo, dù có cao cấp đến đâu! Hãy thử xét xem thái độ của các mục đồng và những kẻ quyền thế thời đó. Các mục đồng khi được báo tin, thì hối hả đến và thờ lạy Đấng Cứu Thế vừa sinh. Họ có thể tin ngay rằng đứa bé yếu đuối và nghèo nàn kia, được sinh ra trong cái chuồng súc vật của họ, chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Cho dẫu chính họ, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội và tôn giáo, cũng không bao giờ nỡ sinh con mình ở cái nơi dơ dáy thấp hèn ấy! Tuy nhiên, cảnh thấp hèn ấy không phải là điều cản trở họ tin. Bài Tin Mừng cho biết niềm tin và thái độ của họ sau khi gặp hài nhi Giêsu: «Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa».
Còn những kẻ quyền thế trong xã hội và tôn giáo thì sao? Họ không thể tin được điều ấy. Não trạng họ rất khác với các mục đồng! Làm sao họ có thể tin và chấp nhận được Đấng Cứu Thế của toàn dân lại sinh ra thấp hèn như vậy! Mà dẫu họ có được báo tin, họ cũng chẳng thèm đến với Đấng Cứu Thế thấp hèn và nghèo nàn ấy làm gì! Người khác phải đến với họ, chứ làm gì có chuyện họ phải đến với người khác, trừ trường hợp người khác đó giàu sang hay có địa vị cao hơn họ! Cứ xem phản ứng của họ thì biết: Khi được các nhà chiêm tinh phương Đông tới báo tin Đấng Cứu Thế đã sinh ra thì vua Hêrôđê và những nhà lãnh đạo tôn giáo đã làm gì? Hêrôđê thì cho quân đi tìm giết con trẻ Giêsu ngay, bất chấp phải giết oan bao đứa trẻ khác. Các vị thượng tế và kinh sư thì cũng chỉ ngồi nhà chờ các nhà chiêm tinh đến cho biết kết quả, mặc dù biết rất rõ Đấng Cứu Thế phải sinh ra tại Bêlem. Và khi các nhà chiêm tinh không trở lại, họ cũng bỏ qua luôn.
4. Hai thái độ khác nhau
Truyền thống Kitô giáo cho rằng Tổng lãnh Thiên thần Luxifer vì không chấp nhận được Con Thiên Chúa nhập thể làm người, nghĩa là Thiên Chúa mà lại sống trong thân phận hèn kém hơn mình, nên đã phản loạn chống lại Thiên Chúa. Não trạng đó cũng là não trạng của rất nhiều người, kể cả các Kitô hữu bình dân và cao cấp! Mặc dù Đức Giêsu làm nhiều phép lạ tỏ tường, được dân chúng tin theo rất đông, nhưng giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái xưa không thể chấp nhận được Ngài là Đấng Cứu Thế. Tại sao? Vì họ thấy Ngài là người nghèo hèn (x. Mt 8:20): thất học (x. Ga 7:15), lại nói và làm rất nhiều điều ngược lại quan niệm của họ, như lỗi luật ngày sábát (x. Mt 12:1-14; Lc 6:6-11; ...), không chịu ăn chay (x. Mt 9:14), ăn không rửa tay (x. Mt 15:1-2; Lc 11:38), giao thiệp với những hạng người tội lỗi (x. Mt 9:10-11; Lc 5:29-30), v.v… Họ cho rằng họ là chân lý, nên ai nói hay hành động khác với họ đều sai. Nếu những người ấy có quyền phép thì đó là quyền phép ma quỷ (x. Mt 9:34; 12:24).
Đối với họ, chỉ những điều mà người có uy quyền trong tôn giáo nói mới là chân lý thôi! Chân lý không thể phát xuất từ môi miệng những hạng bình dân, thấp kém trong xã hội hay tôn giáo được. Do đó, khi các ngôn sứ xuất hiện – thường xuất thân từ giới bình dân, nghèo hèn – thì đều bị họ chê bai và ném đá vì những lời nói mà họ cho là ngang ngược (x. Mt 23:37; Lc 6:23). Họ chỉ ca tụng và ưu đãi những ngôn sứ giả là những người có uy quyền, lại nói vừa lòng họ, lọt lỗ tai họ (x. Lc 6:26). Cũng vậy, khi Đức Giêsu đến, những mặc khải mới về chân lý của Ngài không sao lọt tai họ được, nên họ phải tìm cách trừ khử cho bằng được!
Ngày nay, con người – kể cả các tín đồ trong mọi tôn giáo – vẫn thường có não trạng như thế. Người có thế giá trong tôn giáo nói bất cứ điều gì cũng được họ cho là đúng, là có giá trị, cho dù họ thấy có gì đó không hợp lý. Cũng có khi họ mù quáng đến độ không thể thấy được sự bất hợp lý trong những lời nói đó. Còn những người bình dân, thấp hèn mà nói, thì dù có hợp lý đến đâu, cũng đều vô giá trị. Chính vì thế, nếu thời nay những ngôn sứ của Thiên Chúa có đến, chắc chắn các vị cũng phải đồng số phận hẩm hiu với những ngôn sứ các thời đại trước thôi! Và dẫu chính Đức Giêsu có đến lần nữa, Ngài cũng sẽ bị đối xử tương tự. Ngài lúc nào cũng vẫn là «viên đá vấp phạm» (x. Rm 9:33; 1Pr 2:8) cho nhiều người. Nhưng phúc thay những ai không vấp phạm vì Ngài! (x. Mt 11:6; Lc 7:23)
Qua sự kiện giáng sinh và cuộc sống của Đức Giêsu, chúng ta nên nhận thức rằng người được Thiên Chúa sai đến, dù có thấp hèn đến đâu cũng vẫn là người của Thiên Chúa; chân lý dù được phát biểu bởi trẻ con hay người thấp hèn dốt nát cũng vẫn là chân lý. Còn sai lầm dù được phát biểu bởi kẻ cao sang quyền thế cũng vẫn là sai lầm. Đừng để đầu óc hay lý trí của ta đồng hóa lý của kẻ mạnh, kẻ có quyền với chính chân lý. Có như thế, ta có thể nhận ra Thiên Chúa nơi những anh em nghèo hèn chung quanh ta, và nhận ra chân lý cho dẫu được phát biểu bởi những người mà ta cho là thấp kém. Và có như thế, khi Đức Giêsu đến lần thứ hai như kẻ trộm, nghĩa là bất ngờ về thời điểm cũng như về cách thức, chẳng hạn giống như lần Ngài đến cách đây 2024 năm, chúng ta mới có thể nhận ra Ngài, và không hành động giống như các tư tế, kinh sư, luật sĩ thời ấy.
Nguyễn Chính Kết